“Mãi đến năm 1989, những số liệu về tiền thuê nhà mới được lưu vào máy tính,” Maia Fox nói với Frankie, lấy xuống những hộp hồ sơ bám đầy bụi bặm từ các kệ lưu trữ dưới tầng hầm của văn phòng nhà đất. Cô mang một hộp ra cái bàn lớn kê bên dưới dãy đèn huỳnh quang sáng trưng. Một máy phô-tô để sẵn bên cạnh.
“Người chủ trước đã tự tay ghi lại tất cả vào sổ sách. Hộp này đựng sổ sách từ năm 1971 đến 1975. Tôi không rõ chúng đầy đủ đến mức nào hay có những thông tin cô cần không. Nhưng nếu ngôi nhà được thuê thông qua văn phòng này, ắt sẽ có số liệu giao dịch thanh toán trong đây. Những cuốn từ năm 1976 đến 1980 và từ 1981 đến 1985 thì ở đằng kia.”
“Cảm ơn chị, Maia,” Frankie nói với người quản lí văn phòng nhà đất có gương mặt dễ mến.
“Nếu cô cần gì khác thì cứ cho tôi biết nhé,” Maia mỉm cười nói. Nụ cười của cô lập tức nhạt đi khi trông thấy Simon. Cô khẽ khịt mũi rồi leo lên những bật thang ọp ẹp của tầng hầm.
Frankie quay sang Simon, một bên lông mày nhướng lên.
Simon mở hộp hồ sơ ra và rút ra cuốn sổ kế toán đầu tiên, giả bộ chăm chú vào cái bìa giả da của nó.
“Anh có định nói cho tôi biết chuyện đó là thế nào không?” Frankie hỏi. “Hay tôi phải tự đoán mò?”
Simon biết không thể giả ngây được nữa. Anh cười thiểu não. “Cô ấy chưa tha thứ cho tôi.”
“Tôi hỏi lí do được không?”
“Vài năm trước chúng tôi từng có một mối quan hệ ngắn ngủi.”
“Ôi, Simon, không phải chứ?”
Simon trông thật dễ thương khi xấu hổ. “Cô ấy xuất hiện với món thịt hầm và sự an ủi sau đám tang của ba tôi. Tôi đã suy nghĩ không được sáng suốt cho lắm khi bỏ qua món thịt hầm và đón nhận sự an ủi. Tôi nên chọn thứ kia mới phải, bởi vì cô ấy đang tìm kiếm một điều gì đó mang tính lâu dài. Tôi có thể lấy cái cớ quẫn trí nhất thời do buồn đau để bao biện cho cảm giác tội lỗi, nhưng đó là sự thật, lẽ ra ngay từ đầu tôi phải nhận ra rằng Maia là một sai lầm.”
“Còn ai ở thị trấn này mà anh chưa ngủ cùng không?” Frankie hỏi. “Thôi… quên chuyện đó đi. Tôi thực không muốn biết đáp án đâu.”
Cô ngồi xuống và bắt đầu đọc lướt qua cuốn sổ thứ hai. Các trang được sắp xếp theo thứ tự từng tháng. Tên những ngôi nhà thuê nằm ở cột bên trái. Có bốn ngôi nhà trên đường Pelican được thuê đều đặn. Và – đây rồi – tên của những người thuê nhà, địa chỉ, và số điện thoại được viết bằng nét chữ thanh mảnh ở hàng cột bên phải.
“Chúng ta sẽ tiến hành như sau,” cô nói. “Ta sẽ photo lại các trang có ghi chép về bất kì ngôi nhà nào được thuê trên đường Pelican từ tháng Hai đến tháng Năm. Sau đó dùng bút vàng đánh dấu những dòng có tên đường Pelican trên bản photo và đảm bảo rằng thời gian thuê nhà phải rõ ràng trên trang giấy. Và nếu thấy có người thuê nhà nào tên John thì hãy đánh dấu đỏ.”
“Cô biết không, Francine, tôi không ngủ với hết thảy mọi người trong thị trấn.”
Frankie ngẩng lên. Simon vẫn đứng ở chỗ cũ, cầm cuốn sổ cái, gương mặt nghiêm túc và nhìn cô đăm đăm. Cô đứng dậy và đi tới máy photo, đặt trang giấy lên mặt kính, đóng nắp lại, rồi nhấn nút Start.
“Nếu có thì cũng không phải việc của tôi.”
“Tôi biết có vẻ như tôi lợi dụng phụ nữ…”
“Có vẻ như? Điều gì đó mách bảo tôi rằng Maia sẽ cười lớn nếu chị ấy nghe anh nói vậy.”
“Không,” Simon phản đối. “Ít nhất tôi cũng không có ý định đó. Tôi chưa bao giờ hứa hẹn với bất cứ người nào – và chắc chắn tôi không hứa hẹn gì với Maia cả. Lạy Chúa, không phải cô ấy không biết về tôi. Chẳng lẽ cô ấy thực sự nghĩ rằng một đêm với cô ấy sẽ làm cả cuộc đời tôi thay đổi ư?”
“Phải,” Frankie châm biếm. “Có thể chị ấy nghĩ thế thật. Và tôi ghét phải truyền đạt lại cho anh, nhưng có lẽ ngoài kia không chỉ có một người phụ nữ coi những hành động của anh là những hứa hẹn không lời đâu.”
“Những hứa hẹn không lời?” Simon cáu tiết bật ra một tiếng cười ngắn. “Ồ, đó là vấn đề của bọn họ.”
“Nó cũng là vấn đề của anh nữa.” Frankie lật cuốn sổ và tìm tháng Năm. “Maia nghĩ anh là loại đàn ông chuyên thất hứa. Tôi chắc chắn không phải mình chị ấy có suy nghĩ này đâu.”
Máy photo lại kêu vo vo.
Simon lắc đầu. “Nếu tôi hứa chung thủy, thì tôi sẽ làm thế. Nếu tôi cầu hôn một người phụ nữ, tôi sẽ giữ trọn những lời thề thiêng liêng đó.”
Đôi mắt xanh của anh rực lên mãnh liệt, và Frankie nhận ra cô đang tin anh. Tất nhiên là cô tin anh. Simon sẽ giữ những lời hứa. Song riêng lời hứa duy trì một mối quan hệ thì anh chưa bao giờ đưa ra, trong cả triệu năm nữa cũng không.
“Tôi chỉ chưa gặp được người phụ nữ nào khiến tôi muốn chung sống trọn đời,” anh nói tiếp. “Chưa có mối quan hệ nào khiến tôi cảm thấy… chà, biết nói thế nào nhỉ… mình không bị mắc bẫy.” Anh nhìn xuống cuốn sổ vẫn cầm trên tay và hắng giọng. Frankie nhận ra mình vẫn đang nín thở, chờ nghe điều anh buộc phải nói.
“Ai cũng nghĩ tôi chỉ thích vui vẻ chơi bời, nhưng cô biết không, tôi chẳng thấy vui thú chút nào cả. Tất cả bạn bè tôi đều lần lượt lập gia đình và sinh con đẻ cái, còn tôi vẫn đang hẹn hò với những cô em gái của họ. Với cái đà này, có khi chẳng mấy chốc tôi sẽ bắt đầu hẹn hò với con gái bọn họ. Tôi mệt mỏi rồi, Frankie ạ. Nhưng mỗi khi ở bên một người phụ nữ, tôi lại tự hỏi liệu cô ấy có phải người mình đang tìm kiếm không, rồi tôi nghĩ ra một danh sách dài cả mét liệt kê những lí do tôi nên quay đầu bỏ chạy. Thế là tôi chạy.”
Simon ngẩng lên nhìn cô, chờ một phản ứng nào đó, muốn nghe ý kiến và lời khuyên của cô. Kì lạ thay – Frankie biết Simon từ hồi gia đình anh chuyển tới đảo khi anh còn là một thiếu niên. Năm tháng trôi qua, cho dù cô là bạn của Leila em gái anh, nhưng họ có khá nhiều lần bộc bạch tâm tư với nhau như thế này, và Frankie chưa bao giờ hết ngạc nhiên trước sự chân thành và tin tưởng Simon đặt vào tình bạn với cô.
Cô biết chắc rằng những cuộc trò chuyện của anh với cô bạn gái mới đây, dù cô ta là ai chăng nữa, cũng không sâu sắc đến mức này. Tuy nhiên, mỗi khi Frankie nhìn thấy anh tán tỉnh cô bạn gái đi cùng trong một nhà hàng đông đúc, nâng tay cô ấy lên môi mình, hay khi anh đưa một cô gái trẻ đáng yêu nào đó trong điệu slow ở quán Rustle Hideout – cô lại nguyện đánh đổi những cuộc tâm tình để lấy một chút thân mật về thể xác như thế.
Nhưng từ giờ sẽ không như vậy nữa, Frankie nhắc nhở mình. Cô được thuê để tìm Jazz. Phải chăng là số mệnh run rủi? Cô sẽ được trả thù lao – một khoản thật hậu hĩnh – để tìm ra chàng trai năm xưa mà cô không cách nào quên được.
Nhưng nếu Jazz khó quên đến vậy, thì vì sao cô cứ bị hớp hồn bởi vẻ ngoài hoàn hảo của Simon, với gò má thanh tú và sống mũi thẳng, với đôi mắt xanh sáng ngời và đôi môi duyên, với mái tóc vàng dày dặn và thân hình đầy sức hấp dẫn kia…?
“Có lẽ anh phải ngừng cho rằng mình bị mắc bẫy đi.” Cô nói, dứt ánh mắt khỏi anh. “An toàn là một từ hay hơn nhiều đối với một mối quan hệ lâu dài. Và nếu anh trân trọng những gì anh có hơn là cái không thể có…”
“Nói thì bao giờ chẳng dễ hơn làm.”
“Anh biết không, tôi đoán anh sẽ gặp một người phụ nữ mà anh không thể sống thiếu được,” Frankie nói. “Chỉ cần nhìn cô ấy một lần thôi, anh sẽ nhận ra ngay rằng cô ấy chính là tri kỉ của anh, và anh sẽ hứa tặng cô ấy cả mặt trăng, mặt trời.”
“Tri kỉ ư? Cô lãng mạn hết thuốc chữa rồi đấy, Paresky ạ. Chà, ai lại đi nghĩ như thế?”
Frankie quay lại với máy photo, mở nắp và lật trang sổ. Cô nhấn nút Start và chiếc máy kêu lạch xạch. “Lãng mạn thì sao chứ?”
Simon nhảy tót lên bàn ngồi. Frankie đứng quay lưng lại với anh, cần mẫn photo hết trang này đến trang khác của cuốn sổ. “Kể tôi nghe về gã Jazz cô đang tìm kiếm đi. Tôi thực sự không hiểu cậu ta, nhưng tôi nhớ cô và cậu ta đã từng có một thời nồng nàn say đắm.”
Frankie quay lại nhìn anh, và như thường lệ, đôi mắt cô không đọc nổi. “Tôi chưa bao giờ đi chơi với những đứa trẻ cùng trang lứa tới đây vào các kì nghỉ,” cô nói.
“Trừ Jazz. Anh ấy khác hẳn bọn họ. Anh ấy là tuýp người đọc văn học cổ điển và xem những bộ phim có phụ đề. Anh ấy có thể ngâm thơ và chơi piano, và lần nào đi chơi với nhau, anh ấy cũng hái tặng tôi một bó hoa dại. Tôi chưa từng biết người nào như anh ấy.” Cô mỉm cười. “Anh ấy là lần đầu tiên của tôi.”
“Người tình đầu tiên?”
Nụ cười của cô chuyển thành cái cau mày hoài nghi. “Trời, không phải. Hồi đó tôi mới mười tám tuổi. Tôi chưa sẵn sàng cho chuyện đó. Anh ấy thì có, nhưng tôi thì không. Ý tôi là, anh ấy là nụ hôn đầu tiên của tôi.”
“Ở tuổi mười tám? Chà, cô thật trong sáng.”
Cô lại mỉm cười. “Ờ, có lẽ vậy.”
“Vậy cậu ta có phải tri kỉ của cô không?”
Frankie tựa lưng vào máy photo, một tia cảm xúc lóe lên trong mắt. “Tôi không biết nữa. Cũng có thể. Ý tôi là, chẳng phải kì lạ lắm sao khi sau bao nhiêu năm trời tôi lại được thuê để tìm anh ấy?”
“Như thể là định mệnh?”
“Đúng rồi.” Cô mang những bản photo ra bàn và lấy một cuốn sổ khác. “Nào, đừng ngồi ì ra đó. Anh đánh dấu chỗ này đi.”
“Có thể cậu ta đã lấy vợ.” Simon trượt khỏi bàn và ngồi vào ghế, mở nắp chiếc bút đánh dấu màu vàng.
“Có thể là chưa.”
“Có thể việc cô tìm cậu ta chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chỉ vì cô tình cờ gặp lại cậu ta không có nghĩa cậu ta là định mệnh của đời cô. Nhìn cô và tôi xem – chúng ta lúc nào chẳng ở gần nhau. Thế nhưng chúng ta có trở thành một cặp đâu.”
Frankie khịt mũi. “Dĩ nhiên chuyện đó không thể xảy ra. Vì rõ ràng tôi chỉ đứng chót trong danh sách những người phụ nữ mà anh muốn chinh phục ở thị trấn này.”
“Cái gì?”
Cô mang một xấp bản photo nữa ra bàn. “Không có gì đâu, đừng bận tâm.”
Simon túm lấy cánh tay cô, ngả hẳn ra sau để nhìn vào mắt cô. “Ai bảo thế?” Cô vặn vẹo để thoát ra, nhưng anh không chịu buông tay. “Cô lấy đâu ra cái ý nghĩ vớ vẩn đó thế?” anh hỏi.
Frankie thở dài, đỏ bừng mặt vì xấu hổ. Chỉ đến khi gần gũi thế này, anh mới thấy làn da cô thật mịn màng, gương mặt ửng hồng càng khiến cô thêm muôn phần ngọt ngào và quyến rũ. Đôi mắt cô cụp xuống khiến hàng mi nom như dài vô tận, đen dày và rợp bóng trên hai gò má. Cô đã đi tắm trong lúc anh đưa Clay Quinn tới khu resort, và lúc này thân thể cô đang tỏa ra một mùi thơm mời gọi. Tóc cô vẫn hơi ẩm ướt, thoang thoảng mùi dầu gội ngọt ngào. Tuy cô đã thay sang lối trang phục cố hữu – quần soóc thùng thình và áo phông cũ – nhưng Simon vẫn hình dung được từng đường nét gợi cảm, săn chắc và thon thả ẩn giấu dưới bộ đồ nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ này.
Cô ngước lên, nhìn thẳng vào mắt anh, khiến Simon suýt ngã lộn ra sau ghế. Cảm giác như cô đã chạm vào anh và sức nóng của sự tiếp xúc đó lan tỏa xuống dưới làn da anh. Xuyên suốt cơ thể, khiến từng tấc da thịt nhói lên nhột nhạt.
Nhưng dường như Frankie không nhận thấy điều đó. Cô lại giãy giụa, cố giật cổ tay ra khỏi sự kìm kẹp của anh. “Tôi không biết tại sao tôi lại nói thế,” cô thú nhận. “Tôi định nói là, tôi mừng vì anh coi tôi như bạn bè, không phải như… ý tôi là, tôi không phải gu của anh, cho nên tất nhiên anh sẽ không…”
“Cô cho rằng tôi nghĩ cô không phải gu của tôi.”
“Đúng vậy.” Cuối cùng Frankie cũng vùng ra được.
“Nếu tôi nói rằng cô đã nhầm, và trung bình mỗi ngày tôi có bảy ý nghĩ phóng đãng về cô thì sao?”
Frankie cười, xoa xoa cổ tay. “Tôi sẽ cười vào mũi anh và gọi anh là kẻ nói dối.”
“Đó là sự thật đấy.”
Đôi mắt đen của cô ánh lên lấp lánh. “Tôi không tin đâu, Simon.”
“Đã bao giờ tôi nói dối cô chưa?”
Cô khẽ cười. “Có lẽ là rồi.”
Chao ôi, anh thực sự đang ngồi đó, tán tỉnh Frankie Paresty. Anh mỉm cười đáp lại cô, ngấm ngầm thách thức xem ai phải nhìn đi chỗ khác trước. “Ví dụ như lúc này đây, bảy ý nghĩ phóng đãng đang cùng lúc khuấy động tâm trí tôi.”
Cô đưa mắt đi chỗ khác, nhưng chỉ trong một giây. “Chỉ có bảy thôi sao?” cô nói, một bên chân mày hơi nhướng lên.
Chao ôi, cô thực sự đang tán tỉnh lại anh. Simon vẫn luôn nghĩ rằng anh không phải gu của cô. Anh thậm chí chưa bao giờ dám mời Frankie đi chơi, trừ một lần, gần mười hai năm trước. Ồ, anh cũng từng nửa đùa nửa thật mời cô đi chơi đấy chứ, như lúc anh tìm thấy chiếc váy đen đáng kinh ngạc ấy trong tủ áo của cô. Nhưng không ai trong hai người coi chuyện đó là nghiêm túc. Có lẽ anh nên…
Có lẽ bao lâu nay anh đã lầm. Có lẽ bao lâu nay Frankie đã che giấu sức hút của cô với anh giống như anh che đậy sức hút của mình với cô.
Ý nghĩ ấy làm đầu anh muốn nổ tung. Anh biết mình đang nhìn Frankie với ánh mắt chứa đầy sự khao khát thuần thúy. Nhưng anh không thể ngăn được mình.
“Nếu chúng ta không tiếp tục làm việc thì sẽ mất cả đêm đấy,” Frankie nói, cố gắng tỏ ra thực tế.
“Tôi có cả đêm mà.”
Câu nói của Simon chứa đầy ẩn ý, và Frankie buộc phải quay đi, sợ anh thấy được vẻ mặt mình.
Rốt cuộc Simon Hunt không lạnh nhạt với cô. Nhận thức này mang đến cho cô đủ loại cảm xúc. Thích thú. Phấn khích. Vui sướng. Hốt hoảng. Đặc biệt là hốt hoảng.
Cô bỗng có cảm giác kì quặc rằng mình vừa mới tạo ra một con quái vật đáng sợ, biết rằng nếu cô liếc nhìn lại thì sẽ bắt gặp anh vẫn đang nhìn cô với ánh mắt nóng bỏng ấy. Trước đây cô đã thấy anh nhìn phụ nữ như vậy – dĩ nhiên là những người phụ nữ khác, chứ chưa bao giờ là cô. Cho đến lúc này.
Jazz. Chuyện gì đã xảy ra với niềm háo hức sắp được gặp lại Jazz của cô? Nó đã biến mất tiêu. Đã bị vùi chôn bởi ý nghĩ rằng chỉ cần một chút nỗ lực, anh chàng Simon Hunt thạo đời và cực kì gợi tình này có thể chui được vào gường cô trong một thời điểm rất gần.
Và ngày mai, khi thức giấc, Frankie sẽ thấy rằng tình bạn gần hai mươi năm giữa cô và người đàn ông này đã bị phá hủy. Cô sẽ gia nhập hàng ngũ những người phụ nữ mà Simon đã yêu rồi bỏ, như Maia Fox. Và cô chỉ dùng từ ‘yêu’ theo nghĩa thể xác thuần túy nhất.
Ít nhất cô sẽ không lầm tưởng mình có thể thay đổi Simon. Ít nhất cô sẽ không ngu ngốc đến độ hi vọng anh sẽ đối xử với cô khác hẳn với đám phụ nữ ngu ngốc trước đó.
Cô sẽ không làm thế - bởi vì cô sẽ không ngủ với Simon. Không phải đêm nay. Cũng không phải sau này. Miễn là anh đừng tóm được cô vào khoảnh khắc yếu đuối nhất. Miễn là cô không bị hút vào đôi mắt như dòng dung nham nóng chảy của anh.
“Tiếp tục làm việc thôi,” cô bảo anh, cẩn thận giữ ánh mắt không rời khỏi máy photo.
Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017
Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2017
Nụ hôn đầu cho em(P2)
“Ngài Quinn, tôi là Frankie Paresky. Xin lỗi vì đã để ngài đợi lâu.”
Simon nhìn người đàn ông to béo nhổm người dậy để bắt tay Frankie qua mặt bàn.“Cô là Frankie Paresty?” Miệng Clayton Quinn cong lên thành nụ cười.
“Có vấn đề gì ư?” Frankie hơi giương vây khi cả hai ngồi xuống.
“Tôi cứ nghĩ là một người nào đó…”
“Cao hơn?” Simon đỡ lời, đi vào phòng và ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Quinn.
“Già hơn,” Quinn thành thật.
Frankie quay sang Simon. Mắt cô từ màu nâu ấm áp thoắt cái đã trờ nên băng giá. Ngay cả giọng nói miền Nam nồng hậu dường như cũng lạnh nhạt hẳn. “Simon, tôi dám chắc ngài Quinn sẽ hoan nghênh một chút riêng tư trong buổi gặp này…”
“Quả thực tôi không phiền đâu nếu trợ lí của cô ở lại.”
Quinn tặng cho Simon một nụ cười thân thiện. Ngay từ lúc mở cửa nhà Frankie cho ông ta, Simon đã lập tức thấy mến người đàn ông này. “Thực ra, tôi đến đây để tìm một người, và càng có nhiều người biết chuyện thì tôi càng có cơ hội thành công hơn.”
Simon cảm thấy ánh mắt của Frankie lại chiếu vào mình, và anh biết cô muốn anh ra khỏi đây ngay. Nhưng bây giờ sự tò mò của anh đã nhân lên gấp đôi. Anh muốn biết Quinn đang tìm ai, và muốn xem Frankie Paresty, thám tử tư, làm việc ra sao.
Phải công nhận rằng trông cô rất ổn. Nếu chỉ vừa mới bước vào phòng, anh sẽ không hề biết cô đang mặc bộ đồ tắm Speedo và có lẽ dính đầy cát biển bên dưới bộ trang phục chỉnh tề nghiêm ngắn. Cô vẫn rám nắng và rực rỡ như mọi khi – đôi má và cái mũi thanh tú hơi nhếch hồng hào hẳn lên so với những chỗ khác trên khuôn mặt hình trái tim.
Mái tóc đen cắt ngắn của cô có lẽ vẫn còn vương vị muối, nhưng trông cô như đã dành kha khá thời gian ở trước gương phòng tắm với gel và máy sấy để có được mái tóc bay bay trong gió kia.
Trông cô chuyên nghiệp đến từng centimét, ngay cả tập tài liệu luật màu vàng cô lấy từ ngăn kéo bàn ra cũng sạch sẽ, gọn gàng.
“Trước khi chúng ta đi vào các chi tiết trong vụ của ngài,” cô nói, mở một ngăn kéo hồ sơ ở bàn và lấy ra một thứ trông giống như mẫu hợp đồng, “tôi muốn ngài nắm được mức phí của tôi. Bảy mươi lăm đô la một giờ, một trăm đô la ỗi giờ phải đi lại và thời gian nằm ngoài mười hai tiếng trong ngày. Nếu ngài đồng ý kí hợp đồng hôm nay, ngài sẽ phải trả trước một nghìn đô la. Đổi lại, tôi sẽ cung cấp cho ngài bản kê đầy đủ thời gian, công sức, các phí tổn, cộng với tất cả thông tin tôi thu nhập được trong quá trình điều tra.”
Clayton Alan Quinn rút cuốn séc ra, không hề chớp mắt. “Tôi sẽ trả trước cho cô năm nghìn,” ông ta nói, “bởi vì tôi ngờ rằng cô sẽ không thể tìm ra người tôi muốn tìm trong ngày một ngày hai. Thật ra, nếu cô xoay sở hoàn thành công việc trong vòng một tuần, tôi sẽ thưởng thêm cho cô mười nghìn đô la.”
Simon nghe giọng Frankie run lên, nhưng khẽ đến mức có lẽ Quinn không nhận thấy. “Nếu như chưa đầy một tuần tôi đã làm xong việc thì sao?
Quinn cười vang. “Chúng ta sẽ đàm phán sau.”
Frankie gật đầu. “Cụ thể là ngài muốn tìm ai, ngài Quinn?”
“Clay,” Quinn sửa lời cô với một nụ cười khi xé tờ séc từ cuốn séc bìa da và đặt lên bàn trước mặt cô. “Xin hãy gọi tôi là Clay. Tôi đang tìm một người tên John.”
Frankie cất tờ séc vào ngăn kéo trên cùng của bàn, thậm chí không hề nhìn sang phía Simon. Anh biết rằng mười nghìn đô la đã nhiều hơn một nửa thu nhập năm ngoái của cô. Sao cô có thể ngồi đó và nói về mười nghìn đô la tiền thưởng với gương mặt điềm nhiên như không vậy nhỉ?
Nhưng Clay có vẻ tin tưởng rằng cô xứng đáng với nó. Cuộc kiểm nghiệm thực tế sắp bắt đầu – khi cô buộc phải giải quyết vụ này. Trong chưa đầy một tuần.
Simon nhìn cô viết một ghi chú lên tập giấy. John. Cô ngẩng nhìn Quinn, đôi mắt đen sâu thẳm mở to. “John… gì cơ ạ?”
Clay cười buồn bã. “Vấn đề là ở chỗ ấy. Tôi không biết họ của người đó.”
Frankie ngả người vào lưng ghế. “Có lẽ ngài nên giải thích.”
“Tôi là người thi hành di chúc của bà trẻ tôi. Bà ấy có một ngôi nhà nghỉ ở Sunrise Key này.”
Frankie liếc nhanh sang Simon, và anh biết cô đang nghĩ gì. Cả hai đều biết tất cả những người có cơ ngơi trên hòn đảo nhỏ bé này, và tất cả họ đều đang sống khỏe mạnh. Trừ một người…
“Có phải bà trẻ của ngài là Alice Winfield?” Frankie hỏi, ngồi thẳng dậy.
“Đúng vậy.”
“Nhưng bà ấy đã mất hơn tám năm trước. Chúng tôi còn cho rằng nhà cửa của bà ấy đã sang tên đổi chủ…”
“Tám năm trước bà đã bị một cơn đột quỵ nặng,” Clay nói với Frankie. “Bà chưa bao giờ hồi phục hẳn, và cuối cùng đã ra đi vào tháng trước.”
“Bà ấy vẫn còn sống cho đến tháng trước ư?” Frankie nhìn Quinn chầm chậm như thể ông ta là hiện thân của ác quỷ chứ không phải người đàn ông vừa đưa cô năm nghìn đô la trả trước. “Sao không một ai ở Sunrise Key được biết? Bà Alice Winfield có nhiều bạn bè ở đây, ngài Quinn – chí ít họ cũng muốn viết thư hỏi thăm bà!”
Clay giơ cả hai tay lên như để tránh một đòn tấn công tiềm ẩn. “Tôi xin lỗi, tôi thậm chí còn không biết bà Alice có một ngôi nhà ở dưới này cho đến sau khi bà qua đời.”
Frankie quay sang Simon, và anh thấy mắt cô đang rưng rưng. Trời, cô đúng là một quả cầu lửa dễ xúc động. Từ xưa đến nay vẫn thế. Dễ buộc tội, dễ lao vào thử thách, dễ tranh cãi, dễ tấn công. Nhưng cũng dễ dàng tha thứ và bỏ qua.
Nhìn đôi mắt nâu ươn ướt của cô, Simon tự hỏi – không phải lần đầu tiên – rằng Frankie sẽ như thế nào khi ở trên gường. Không phải lần đầu tiên ư? Khỉ thật, thậm chí không phải lần đầu tiên trong ngày hôm nay. Làm tình với Frankie Paresky sẽ ra sao là điều anh cứ tự hỏi gần như mỗi ngày suốt mười hai năm qua. Và gần đây tần suất tự hỏi của anh có vẻ càng lúc càng thường xuyên hơn. Như lúc cô làm anh giật mình khi cởi bỏ quần áo ngoài chỉ để lại đồ tắm trên người trước mặt anh, hay cách cô trèo lên tầng hai chưa đầy vài phút trước. Như lúc anh nhìn thấy cô đi về phía anh trên đại lộ Ocean, hay khi cô nở nụ cười tươi rói với anh. Khi anh nghe thấy âm thanh khàn khàn trong tiếng cười hay giọng nói miền Nam lên bổng xuống trầm êm dịu của cô. Khi anh thức giấc vào buổi sáng. Khi anh chìm vào cơn mơ buổi tối…
“Anh có nhớ bà Alice Winfield không, Si?” cô hỏi.
Anh có thể hình dung ra cô đang mặc chiếc váy đen gợi cảm đó, chất vải mềm ôm sát thân hình uyển chuyển – một thân hình tuyệt mĩ mà cô luôn che giấu kĩ càng trong những chiếc áo phông lùng thùng, quần soóc ống rộng và những bộ đồ tắm liền mảnh tiện dụng. Anh có thể hình dung ra cô không một mảnh vải che thân – với khuôn miệng đầy khao khát, những ngón tay lùa trong tóc anh, cơ thể háo hức chờ đợi…
“Có,” anh hắng giọng và hơi ngọ nguậy trên ghế. “Alice Winfield, tất nhiên là tôi nhớ bà ấy.” Đúng hơn là, anh nhớ bà ấy có một ngôi nhà kiểu Victoria trên đường Pelican mà anh ngờ rằng toàn chứa đồ nội thất cổ hoàn hảo được giữ gìn cẩn thận – một miếng mồi béo bở đối với những tay buôn đồ cổ như anh. Anh luôn muốn vào trong ngôi nhà đó ghê gớm. Tốt hơn là nên nghĩ về điều đó, đừng mê mải với những ý nghĩ gợi tình điên rồ nữa. “Bà ấy là giáo viên tiểu học phải không?”
“Tôi hay ghé qua giúp bà ấy dọn cỏ trong vườn,” Frankie nói. “Tôi chăm sóc khu vườn cho bà ấy vào mùa hè, khi bà ấy đi lên miền Bắc. Bà ấy là người phụ nữ đôn hậu và tử tế nhất. Giá như tôi biết bà ấy vẫn còn sống, tôi đã giữ liên lạc với bà ấy rồi.”
“Tôi không biết về bà tường tận đến thế,” Clay Quinn thú nhận. “Nhưng hình như người chồng quá cố của bà đã để lại cho bà một gia tài kết xù, và bà đã đầu tư nó thành công. Tiền bạc của bà rất dư dả, và bà khá hào phóng phân phát cho họ hàng. Bà không có con cái gì cả, cô biết đấy.”
Frankie gật đầu, tập trung hoàn toàn vào Quinn.
Simon phát hiện mình lại đang nhìn cô chằm chằm. Khỉ thật, anh bị làm sao vậy? Dĩ nhiên cô cực kì xinh đẹp – cho dù cô thường ăn mặc như một phu khuân vác. Nhưng thế thì sao nào? Ngay lúc này có tới hàng trăm phụ nữ xing đẹp đang đi lại ngoài bãi biễn hình trăng lưỡi liềm của Sunrise Key kìa. Và có lẽ đó chính là vấn đề của anh. Có lẽ chỉ vì lâu rồi anh chưa mời ăn tối – và tán tỉnh – một vị khách đáng yêu nào đến hòn đảo này. Tối nay anh sẽ đến nhà hàng nằm trong khu resort, tìm ình một cái hẹn ăn tối, và không nghĩ ngợi gì về Frankie Paresky nữa.
“Alice viết trong di chúc là bà sẽ để lại tài sản ở Sunrise Key ột người tên John,” Quinn nói. “Trong khoảng thời gian cuối những năm bảy mươi đầu những năm tám mươi, mùa xuân nào người đó cũng về nghỉ ở đây hai tuần lễ. Theo lời bà Alice, ông ấy thuê một ngôi nhà gần nhà của bà ở đường Pelican. Hình như trong lúc vợ ông ấy thư giãn ngoài bãi biển, ông ấy thường giúp bà Alice những việc vặt và sửa mấy món đồ hỏng hóc. Bà biết rằng ông ấy chưa bao giờ lấy một đồng nào cho tất cả những công việc đã làm cho bà, và thường sang chơi nhà bà vào buổi tối để đánh bài tay đôi với bà. Alice không nhớ rõ bà có biết họ của ông ấy hay không.
Bà nghĩ vợ ông ấy tên là Lynn hay Lana gì đó, và họ có một cậu con trai có biệt danh là Biff hoặc Buzz hoặc…”
“Jazz?” Frankie hỏi.
Simon không nén được cười. Ai mà ngờ được? Có lẽ ý niệm Frankie Paresty làm thám tử tư không đến nỗi quá vô lí. Xét cho cùng, cô biết tất cả mọi người trên đảo – và hình như cả những người đã từng ghé lại đảo này nữa.
“Tôi biết một chàng trai tên Jazz vẫn hay về nghỉ xuân ở đây trong nhiều năm,” Frankie nói tiếp. “Lần đầu tiên tôi gặp anh ấy là khi, tôi cũng không chắc lắm, có lẽ khi tôi mười hai tuổi. Lần cuối cũng tôi nhìn thấy anh ấy là năm tôi mười tám tuổi.
Anh ấy từ trường đại học về đây vào kì nghỉ - hình như là đại học Boston thì phải. Gia đình anh ấy luôn thuê một ngôi nhà trên đường Pelican.”
“Không thể tin cô lại nhớ được một anh chàng chỉ ở đây hai tuần mỗi năm,” Simon nói.
Frankie liếc anh một cái thật nhanh. “Jazz… là người không dễ gì quên được. Tôi không nhớ họ của anh ấy, nhưng chắc chắn tôi đã ghi lại ở đâu đó.”
Jazz, cái tên này – và vẻ mặt của Frankie – đột nhiên khơi lại trong Simon những kí ức về một thiếu niên cực kì đẹp trai với mái tóc nâu vàng và vóc người săn chắc như một vận động viên marathon. Thực ra anh có thể tưởng tượng ra cảnh Jazz đang chạy dọc bãi biển, tay trong tay với Frankie, cười vang, thở hổn hển và ngã nhào xuống bãi cát để hôn cô – những nụ hôn dài, chậm và sâu khiến chỉ nhìn thôi cũng làm tim người ta ngừng đập. Và chỉ có Chúa mới biết là Simon đã nhìn thấy. Đó là mùa hè Frankie bước sang tuổi mười tám – lúc Simon nhận ra cô bạn thân của em gái anh từ một cô bé lôi thôi lếch thếch đã lột xác thành một mĩ nhân. Anh đã không thể rời mắt khỏi Frankie – ngay cả khi cô ở bên Jazz.
Simon đã mời Frankie đi chơi vào mùa hè đó, nhưng hình như cô chẳng để ý đến anh. Cô chỉ nghĩ đến tên Jazz khó ưa nọ - cho dù thằng nhóc đã đi khỏi đảo được gần hai tháng.
“Cô định bắt đầu tìm kiếm từ chỗ đó sao?” Quinn hỏi. “Từ cậu con trai ấy?”
“Tôi nghĩ chúng ta buộc phải làm thế,” Frankie nói với ông. “Nếu tôi nhớ không nhầm, thì Jazz sống với mẹ và bố dượng. Nếu bố dượng của Jazz quả thực là người chúng ta đang tìm kiếm, thì John và Jazz sẽ không cùng một họ.” Cô lấy một cặp hồ sơ từ ngăn kéo và viết chữ “Quinn” lên nhãn. “Tôi cũng sẽ đến hỏi một người bạn làm ở văn phòng nhà đất. Sự việc diễn ra cách đây mười hoặc mười hai năm rồi, nhưng có thể cô ấy có sổ sách ghi chép tiền thuê của những ngôi nhà trên đường Pelican thời đó. Có lẽ ta sẽ tìm ra họ của John theo cách ấy.”
Quinn gật đầu. “Tôi sẽ ở tại khu resort Seaholm cho đến khi chuyến bay của tôi cất cánh vào tối mai. Nếu cô tìm hiểu được gì, xin hãy cho tôi biết.”
“Ngài đi sớm thế ư?”
Ông ta cười buồn. “Đáng ra tôi có thể tranh thủ nghỉ ngơi. Nhưng rủi thay, công việc ở nhà còn đang chất như núi đợi tôi giải quyết. Thậm chí tôi còn không có thời gian gọi cho cô trước khi rời Michigan. Tôi xin lỗi vì đã đến mà không báo trước.”
Frankie xếp những ghi chú vào cặp file rồi đóng lại. “Không sao đâu ạ.”
Clay Quinn liếc nhìn chiếc đồng hồ Rolex trên tay. “Cô gọi hộ tôi một chiếc taxi được không?”
Frankie cứng người. “Umm…”
Simon biết cô đang nghĩ gì. Cô đang nghĩ đến chiếc taxi duy nhất trên đảo hiện đậu ở khu nhà kế bên. Cô đang nghĩ cho dù có chạy lên lầu và thay lại cái áo phông, quần soóc và mũ bóng chày, thì lần này cô cũng không thể nào che mắt được ông Quinn.
Simon đành làm người giải cứu cho cô. “Xe jeep của tôi đỗ ngay bên ngoài. Sao ngài không để tôi chở ngài đến khu resort?”
“Ồ, cảm ơn anh, thế thì còn gì bằng.” Quinn đứng dậy, thu thập hành lí và áo mưa. Ông quay lại nhìn Frankie. “Suýt nữa quên mất – sáng mai tôi sẽ đến ngôi nhà trên đường Pelican, cô có muốn đi cùng không? Tôi không dám chắc sẽ có manh mối, nhưng biết đâu đấy?”
“Mấy giờ ạ?” Frankie hỏi.
“Chín giờ.”
“Tôi sẽ gặp ngài ở đó.”
“Cả tôi nữa.” Simon nói.
Frankie mỉm cười ngọt ngào với Simon. Quá đỗi ngọt ngào. “Anh vào trong với tôi một lát được không?” Cô quay sang Clay. “Xin phép ngài nhé?”
“Được thôi.”
Simon theo Frankie ra hành lang và xuống bếp, rồi nhìn cô khi cô đóng cửa xoay lại sau lưng.
“Tôi cảm ơn anh đã cho ông Clay Quinn đi nhờ về khu resort.” Cô hạ giọng nói, “và tôi sẽ mãi mãi yêu mến anh vì đã đến đây giúp tôi chiều nay, nhưng anh không phải là trợ lí hay cộng sự gì gì khác của tôi. Tất nhiên trừ khi anh muốn giúp tôi một công việc kém hấp dẫn hơn – như tra cứu sổ sách văn phòng nhà đất chẳng hạn…?”
“Chín giờ sáng mai, cánh cửa ngôi nhà số sáu trên đường Pelican sẽ được mở lần đầu tiên sau nhiều năm.” Simon cũng gắng hạ thấp giọng, nhưng không thể giấu nổi sự phấn khích. “Thử nghĩ đến những báu vật có thể có trong đó xem!”
“Có thể chẳng có gì ngoài đồ bỏ đi, Si ạ.”
“Có thể có những món đồ vô giá. Có thể có những món đồ mà khách hàng của tôi đang tìm kiếm.”
“Và tất cả chúng thuộc về con người bí ẩn tên John này,” Frankie chỉ ra.
“Khi nào cô tìm ra ông ta,” Simon nói, “tôi sẽ thuyết phục ông ta bán cho tôi đồ nội thất cổ của bà Alice Winfield.”
Frankie nhìn anh, ánh mắt thật khó đoán định. Cô đang nghĩ gì nhỉ? Với những phụ nữ khác, anh có thể đọc tâm sự họ như một cuốn sách. Nhưng còn Frankie… cô đúng là một bí ẩn.
“Nghe này.” Simon hi vọng giọng anh không tuyệt vọng như anh cảm nhận. “Tôi chỉ muốn vào trong ngôi nhà đó và nhìn ngó một chút thôi. Sáng mai hãy cho tôi đến đấy cùng cô đi, và chúng ta sẽ chẳng nợ nần gì nhau nữa. Đôi bên cùng có lợi mà.”
Cô không nói lời nào. Chỉ nhìn anh.
“Thôi được,” anh nói. “Tôi cũng sẽ đến văn phòng nhà đất với cô chiều nay, giúp cô kiểm tra sổ sách tiền thuê nhà. Thế là chúng ta sẽ thực sự sòng phẳng nhé.”
Anh dừng lời. “Vậy được chưa?”
Frankie mỉm cười. “Tôi tự hỏi, nếu tôi cứ đứng ì ra đây, chẳng nói năng gì, thì đến cuối cùng liệu anh có đưa tôi giấy tờ nhà anh không.”
“Tôi chỉ nghĩ ngó nhà bà Alice Winfield một cái thôi cũng phải đánh đổi bằng giấy tờ nhà của mình,” Simon nói, “nhưng tôi sẽ rất cảm kích nếu cô cho tôi ít phút để nghĩ thấu đáo.” Anh ngừng lại trong một phần mười giây. “Được, tôi sẽ gán thêm cả cái đó nữa.”
Frankie phì cười, lắc đầu. “Không thể nào từ chối anh được.”
“Mới vài phút trước cô làm điều đó rất tốt còn gì.”
Frankie đẩy cửa bếp, ra hiệu cho anh đi ra trước. “Tôi sẽ gặp anh ở văn phòng nhà đất trong nửa giờ nữa.”
Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017
Truyện ngắn : Hai con số phận khác nhau
Hai con hổ số phận khác nhau
Có hai con hổ, một con ở trong chuồng, một con nơi hoang dã.
Hai con hổ đều cho rằng hoàn cảnh của bản thân mình không tốt, đôi bên đều ngưỡng mộ đối phương, thế là chúng quyết định thay đổi thân phận với nhau. Lúc mới bắt đầu, cả hai đều vô cùng vui vẻ, nhưng không lâu sau đó, hai con hổ đều chết cả: một con vì đói mà chết, một con u sầu mà chết.
Gợi ý nhỏ:
Có những lúc, mọi người nhắm mắt làm ngơ đối với hạnh phúc của chính bản thân mình, để rồi luôn để mắt đến hạnh phúc của những người khác. Thật ra, những gì mà bạn đang có chính là những điều mà người khác phải ngưỡng vọng.
Cuộc đời là thế, nhiều chuyện xảy ra theo cách không thể ngờ tới, hy vọng sau khi đọc những câu chuyện này, mọi lúc mọi nơi ai cũng có thể tự nhắc nhở bạn thân mình vậy.
Có hai con hổ, một con ở trong chuồng, một con nơi hoang dã.
Hai con hổ đều cho rằng hoàn cảnh của bản thân mình không tốt, đôi bên đều ngưỡng mộ đối phương, thế là chúng quyết định thay đổi thân phận với nhau. Lúc mới bắt đầu, cả hai đều vô cùng vui vẻ, nhưng không lâu sau đó, hai con hổ đều chết cả: một con vì đói mà chết, một con u sầu mà chết.
Gợi ý nhỏ:
Có những lúc, mọi người nhắm mắt làm ngơ đối với hạnh phúc của chính bản thân mình, để rồi luôn để mắt đến hạnh phúc của những người khác. Thật ra, những gì mà bạn đang có chính là những điều mà người khác phải ngưỡng vọng.
Cuộc đời là thế, nhiều chuyện xảy ra theo cách không thể ngờ tới, hy vọng sau khi đọc những câu chuyện này, mọi lúc mọi nơi ai cũng có thể tự nhắc nhở bạn thân mình vậy.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)